100 NĂM MIỀN BẮC VIỆT NAM QUA ẢNH
Cứ mỗi dịp Tết đến xuân về, tôi lại thích nghĩ về quá khứ, về những gì đã qua. Tết là một cái cớ để sống chậm lại và suy ngẫm về những giá trị cũ. Thời gian lúc này như chậm lại để cho những dòng ký ức cứ bám quanh người đặc quánh, nghi ngút. Tôi lại lục tung những hang cùng ngõ hẻm của mạng Internet để kiếm tất cả những bức ảnh miền Bắc từ xưa đến nay mình có thể tìm được. Tôi chợt nhận ra, ảnh về Việt Nam xưa nay cũng không hề ít nhưng mỗi chỗ rải rác một nơi mang nặng tính chất nhà kho hơn là kết nối. Vậy là ý tưởng của bài này ra đời, tôi bỏ ra hai ngày tổng hợp và chọn ra hơn 300 bức ảnh màu/đen trắng của miền Bắc Việt Nam 100 năm qua (từ 1915 đến 2015), cộng thêm chú thích những gì có thể để tạo thành một câu chuyện dài, một bức tranh toàn cảnh của những hoài niệm. Di sản của ông cha ta để lại không chỉ là những thứ xa xôi, cao siêu như giá trị văn hóa tinh thần của dân tộc cần được đánh thức và bảo tồn mà còn là những khoảnh khắc, thói quen, con người đã gắn bó sâu đậm đến mức trở thành một phần của tiềm thức, không bao giờ thay đổi.
Phố Paul Bert (năm 1914/1915), nay là phố Tràng Tiền, Hà Nội. Paul Bert là một nhà động vật học, sinh lý học, và chính trị gia người Pháp, ngoài đường Paul Bert thì tên ông còn được chính quyền thực dân Pháp ở Đông Dương dùng đặt tên một vườn hoa ở Hà Nội, vườn hoa Paul Bert (nay là vườn hoa Lý Thái Tổ)
Eue des Ferblamctiers (phố Hàng Thiếc), Hà Nội, 1915. Nối từ cuối phố Hàng Bồ đến phố Hàng Nón, ngày nay phố này là nơi tập trung các nhà sản xuất những mặt hàng bằng tôn, kẽm, sắt tây và gương soi. Trước thời Pháp thuộc thì là nơi sản xuất và bày bán các loại hàng đúc bằng thiếc như cây đèn, cây nến, lư hương, ấm, khay đựng chén…
Cầu Long Biên là cây cầu thép đầu tiên bắc qua sông Hồng Hà Nội, ngày xưa vốn được đặt tên là Paul Doumer, theo tên của Quan Toàn quyền Đông Dương Paul Doumer. Khởi công năm 1898 và hoàn thành năm 1902.
Thầy đồ viết câu đối để bán. Xin chữ thầy đồ ngày tết là truyền thống dân gian từ xưa, khi đó đa phần không biết chữ nên mới có phong tục thờ chữ trong nhà để mơ ước con cháu sau này được học hành, làm ăn phát đạt. Sau này thì nó đơn giản là một phong tục với mong muốn mang lại may mắn, bình an cho gia đình.
Phố Hàng Gai, Tết Trung thu 1915. Một phần con phố hồi cuối thế kỷ 19 có tên là phố Hàng Tiện: có những cửa hàng nhỏ, thợ vừa tiện vừa bán những đồ thờ, mâm bồng, đèn nến, ống hương, đài rượu, khuôn ván, mõ gỗ… Họ tiện cả những thứ nói trên nhưng cỡ nhỏ bé để trẻ con chơi.
Hàng Đào (Hà Nội) những năm thập niên 20. Phố Hàng Đào là một phố trong khu phố cổ Hà Nội. Phố Hàng Đào nằm theo hướng bắc – nam, dài khoảng 260m. Đầu phía nam của phố là quảng trường Đông Kinh Nghĩa Thục sát bờ hồ Hoàn Kiếm, đầu phía bắc giáp phố Hàng Ngang. Tên phố có nguồn gốc từ mặt hàng vải nhuộm đỏ được bán nhiều ở phố từ xa xưa. Hiện nay Hàng Đào là phố một chiều cho các phương tiện giao thông và vẫn được coi là phố buôn bán chính. Ảnh: Charles Peyrin
Mỏ than ở Hòn Gai, 1921. Ngày xưa dù là kẻ thắng trận trong Thế chiến II nhưng Pháp chịu nhiều tổn thất nặng nề về kinh tế và là con nợ lớn của Mỹ. Để bù đắp chiến phí, Pháp càng tăng cường mạnh mẽ việc khai thác thuộc địa, nhất là Đông Dương vì nơi đây vốn là một vùng đất giàu có về khoáng sản và nông nghiệp. Đặc biệt than luôn đứng đầu trong số các khoáng sản được khai thác ở Việt Nam
Gần mộ mỏ đồng, 1915. Bên cạnh than, các mỏ đồng, thiếc, kẽm, sắt… đều được bổ sung thêm vốn, nhân công và đẩy mạnh tiến độ khai thác, sản lượng tăng gấp nhiều lần trước chiến tranh.
Vùng biên giới Trung Quốc, làng NaCham năm 1915 (ngày nay là thị trấn Na Sầm thuộc huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn). Thị trấn Na Sầm có diện tích 1,5 km², dân số năm 1999 là 3299 người. người ta hầu như không dùng tiền mặt, nếu có thì chủ yếu là tiền lẻ. Ở đây có chợ Na Sầm, đa phần hàng hoá được mua bán bằng cách trao đổi.
Những năm thập niên 20. Vườn hoa cạnh Hồ Gươm, góc Hàng Khay/Đinh Tiên Hoàng bây giờ. Cái đài ở góc trái ảnh giờ không còn nữa. Ảnh: Charles Peyrin
Cấy lúa ngày xưa.
Nhuộm răng đen là một tục lệ có từ lâu đời của Việt Nam, đơn giản là vì quan niệm về thẩm mỹ mỗi thời mỗi khác thôi. Như tôi đọc sách thì các cụ viết rằng trước hết dùng cánh kiến tán nhỏ, vắt nước chanh để kín bảy ngày, chờ tối đi ngủ phết thuốc ấy vào hai mảnh lá dừa hoặc mo cau rồi ấp vào hai hàm răng. Trong thời gian nhuộm răng thì phải kiêng nhai. Lặp lại như thế một tuần cho răng ra màu cánh gián thi bôi thuốc răng đen. Thuốc răng đen làm bằng phèn đen trộn với cánh kiến, nhuộm vài miếng là đen kịt lại, rồi đốt cho chảy nhựa ra, lấy nhựa ấy phết vào răng cho không phai ra được nữa.
La Rue du Cuivres. Phố Hàng Đồng, Hà Nội, 1915. Thời Pháp thuộc hai phố Hàng Đồng và Bát Sứ thuộc phố Rue des Tasses (phố Hàng Chén). Ngày xưa đây là nơi cung cấp chế tác các sản phẩm từ Đồng cho cả kinh thành.
Cô bé chăn trâu (1915)
Quan tổng đốc một tỉnh gần Hà Nội (1915). Ngày xưa đây là một chức quan của chế độ phong kiến trao cho viên quan đứng đầu một vùng hành chính gồm nhiều tỉnh thành. Ở Việt Nam, từ năm Tân Mão 1831, năm thứ 12 triều vua Minh Mạng, nhà vua chia Việt Nam thành 31 tỉnh, trong đó miền Bắc có 6 quan tổng đốc: Sơn Hưng Tuyên, Hà Ninh, Ninh Thái, Hải An, Định An, Lạng Bình.
Cô gái ăn trầu (1915). Với người Việt Nam, trầu cau là biểu hiện của phong cách, vừa là thể hiện tình cảm dân tộc độc đáo. Trầu cũng được dùng để tưởng nhớ tổ tiên, để ghi nhớ công ơn nuôi nấng sinh thành của những thế hệ đi trước. Trầu cau gần gũi với ông bà chúng ta như thế nên hiển nhiên nó cũng trở thành hình tượng của văn hóa và con người Việt Nam xưa.
Phố Hàng Khoai. Phố Hàng Khoai dài trên ba trăm năm mươi mét đi từ bờ sông Hồng đến ngã năm Hàng Lược. Phố có tên là Hàng Khoai vì ở sát bên chợ Đông Xuân, hàng ngày nông dân ngoại thành hay tập trung ở đây để bán các thứ nông sản nhiều nhất là các loại khoai: khoai lang, khoai sọ, khoai môn, cùng với gạo, ngô, đỗ, sắn.
Bán nước chè. 1919.
Nhà thờ ở Lạng Sơn. Thành phố trước đây có tên là Thị xã Lạng Sơn và trở thành thành phố vào năm 2002, là đô thi loại III. Giáo phận ở đây phát triển khá mạnh với rất nhiều nhà thờ.
Cổng tam quan chùa Láng. Chùa Láng còn gọi là Chiêu Thiền tự, là một ngôi chùa đường Chùa Láng, trước kia vốn là ngõ Giếng của làng Láng Thượng, quận Đống Đa, Hà Nội. Tên chùa có ý nghĩa rằng: “Vì có điều tốt rõ rệt nên gọi là Chiêu. Đây là nơi sinh ra Thiền sư Đại Thánh nên gọi là Thiền”. Người Pháp gọi là Pagode des Dames. Còn cổng tam quan là một loại cổng có ba lối đi thường thấy ở chùa chiền theo lối kiến trúc truyền thống Việt Nam. Cổng tam quan mang ý niệm “ba cách nhìn” của Phật giáo gồm có “hữu quan”, “không quan” và “trung quan”, thể hiện cái sắc (giả), cái không (Vô thường) và trung dung của cả hai.
Cứ mỗi dịp Tết đến xuân về, tôi lại thích nghĩ về quá khứ, về những gì đã qua. Tết là một cái cớ để sống chậm lại và suy ngẫm về những giá trị cũ. Thời gian lúc này như chậm lại để cho những dòng ký ức cứ bám quanh người đặc quánh, nghi ngút. Tôi lại lục tung những hang cùng ngõ hẻm của mạng Internet để kiếm tất cả những bức ảnh miền Bắc từ xưa đến nay mình có thể tìm được. Tôi chợt nhận ra, ảnh về Việt Nam xưa nay cũng không hề ít nhưng mỗi chỗ rải rác một nơi mang nặng tính chất nhà kho hơn là kết nối. Vậy là ý tưởng của bài này ra đời, tôi bỏ ra hai ngày tổng hợp và chọn ra hơn 300 bức ảnh màu/đen trắng của miền Bắc Việt Nam 100 năm qua (từ 1915 đến 2015), cộng thêm chú thích những gì có thể để tạo thành một câu chuyện dài, một bức tranh toàn cảnh của những hoài niệm. Di sản của ông cha ta để lại không chỉ là những thứ xa xôi, cao siêu như giá trị văn hóa tinh thần của dân tộc cần được đánh thức và bảo tồn mà còn là những khoảnh khắc, thói quen, con người đã gắn bó sâu đậm đến mức trở thành một phần của tiềm thức, không bao giờ thay đổi.
Phố Paul Bert (năm 1914/1915), nay là phố Tràng Tiền, Hà Nội. Paul Bert là một nhà động vật học, sinh lý học, và chính trị gia người Pháp, ngoài đường Paul Bert thì tên ông còn được chính quyền thực dân Pháp ở Đông Dương dùng đặt tên một vườn hoa ở Hà Nội, vườn hoa Paul Bert (nay là vườn hoa Lý Thái Tổ)
Eue des Ferblamctiers (phố Hàng Thiếc), Hà Nội, 1915. Nối từ cuối phố Hàng Bồ đến phố Hàng Nón, ngày nay phố này là nơi tập trung các nhà sản xuất những mặt hàng bằng tôn, kẽm, sắt tây và gương soi. Trước thời Pháp thuộc thì là nơi sản xuất và bày bán các loại hàng đúc bằng thiếc như cây đèn, cây nến, lư hương, ấm, khay đựng chén…
Cầu Long Biên là cây cầu thép đầu tiên bắc qua sông Hồng Hà Nội, ngày xưa vốn được đặt tên là Paul Doumer, theo tên của Quan Toàn quyền Đông Dương Paul Doumer. Khởi công năm 1898 và hoàn thành năm 1902.
Thầy đồ viết câu đối để bán. Xin chữ thầy đồ ngày tết là truyền thống dân gian từ xưa, khi đó đa phần không biết chữ nên mới có phong tục thờ chữ trong nhà để mơ ước con cháu sau này được học hành, làm ăn phát đạt. Sau này thì nó đơn giản là một phong tục với mong muốn mang lại may mắn, bình an cho gia đình.
Phố Hàng Gai, Tết Trung thu 1915. Một phần con phố hồi cuối thế kỷ 19 có tên là phố Hàng Tiện: có những cửa hàng nhỏ, thợ vừa tiện vừa bán những đồ thờ, mâm bồng, đèn nến, ống hương, đài rượu, khuôn ván, mõ gỗ… Họ tiện cả những thứ nói trên nhưng cỡ nhỏ bé để trẻ con chơi.
Hàng Đào (Hà Nội) những năm thập niên 20. Phố Hàng Đào là một phố trong khu phố cổ Hà Nội. Phố Hàng Đào nằm theo hướng bắc – nam, dài khoảng 260m. Đầu phía nam của phố là quảng trường Đông Kinh Nghĩa Thục sát bờ hồ Hoàn Kiếm, đầu phía bắc giáp phố Hàng Ngang. Tên phố có nguồn gốc từ mặt hàng vải nhuộm đỏ được bán nhiều ở phố từ xa xưa. Hiện nay Hàng Đào là phố một chiều cho các phương tiện giao thông và vẫn được coi là phố buôn bán chính. Ảnh: Charles Peyrin
Mỏ than ở Hòn Gai, 1921. Ngày xưa dù là kẻ thắng trận trong Thế chiến II nhưng Pháp chịu nhiều tổn thất nặng nề về kinh tế và là con nợ lớn của Mỹ. Để bù đắp chiến phí, Pháp càng tăng cường mạnh mẽ việc khai thác thuộc địa, nhất là Đông Dương vì nơi đây vốn là một vùng đất giàu có về khoáng sản và nông nghiệp. Đặc biệt than luôn đứng đầu trong số các khoáng sản được khai thác ở Việt Nam
Gần mộ mỏ đồng, 1915. Bên cạnh than, các mỏ đồng, thiếc, kẽm, sắt… đều được bổ sung thêm vốn, nhân công và đẩy mạnh tiến độ khai thác, sản lượng tăng gấp nhiều lần trước chiến tranh.
Vùng biên giới Trung Quốc, làng NaCham năm 1915 (ngày nay là thị trấn Na Sầm thuộc huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn). Thị trấn Na Sầm có diện tích 1,5 km², dân số năm 1999 là 3299 người. người ta hầu như không dùng tiền mặt, nếu có thì chủ yếu là tiền lẻ. Ở đây có chợ Na Sầm, đa phần hàng hoá được mua bán bằng cách trao đổi.
Những năm thập niên 20. Vườn hoa cạnh Hồ Gươm, góc Hàng Khay/Đinh Tiên Hoàng bây giờ. Cái đài ở góc trái ảnh giờ không còn nữa. Ảnh: Charles Peyrin
Cấy lúa ngày xưa.
Nhuộm răng đen là một tục lệ có từ lâu đời của Việt Nam, đơn giản là vì quan niệm về thẩm mỹ mỗi thời mỗi khác thôi. Như tôi đọc sách thì các cụ viết rằng trước hết dùng cánh kiến tán nhỏ, vắt nước chanh để kín bảy ngày, chờ tối đi ngủ phết thuốc ấy vào hai mảnh lá dừa hoặc mo cau rồi ấp vào hai hàm răng. Trong thời gian nhuộm răng thì phải kiêng nhai. Lặp lại như thế một tuần cho răng ra màu cánh gián thi bôi thuốc răng đen. Thuốc răng đen làm bằng phèn đen trộn với cánh kiến, nhuộm vài miếng là đen kịt lại, rồi đốt cho chảy nhựa ra, lấy nhựa ấy phết vào răng cho không phai ra được nữa.
La Rue du Cuivres. Phố Hàng Đồng, Hà Nội, 1915. Thời Pháp thuộc hai phố Hàng Đồng và Bát Sứ thuộc phố Rue des Tasses (phố Hàng Chén). Ngày xưa đây là nơi cung cấp chế tác các sản phẩm từ Đồng cho cả kinh thành.
Cô bé chăn trâu (1915)
Quan tổng đốc một tỉnh gần Hà Nội (1915). Ngày xưa đây là một chức quan của chế độ phong kiến trao cho viên quan đứng đầu một vùng hành chính gồm nhiều tỉnh thành. Ở Việt Nam, từ năm Tân Mão 1831, năm thứ 12 triều vua Minh Mạng, nhà vua chia Việt Nam thành 31 tỉnh, trong đó miền Bắc có 6 quan tổng đốc: Sơn Hưng Tuyên, Hà Ninh, Ninh Thái, Hải An, Định An, Lạng Bình.
Cô gái ăn trầu (1915). Với người Việt Nam, trầu cau là biểu hiện của phong cách, vừa là thể hiện tình cảm dân tộc độc đáo. Trầu cũng được dùng để tưởng nhớ tổ tiên, để ghi nhớ công ơn nuôi nấng sinh thành của những thế hệ đi trước. Trầu cau gần gũi với ông bà chúng ta như thế nên hiển nhiên nó cũng trở thành hình tượng của văn hóa và con người Việt Nam xưa.
Phố Hàng Khoai. Phố Hàng Khoai dài trên ba trăm năm mươi mét đi từ bờ sông Hồng đến ngã năm Hàng Lược. Phố có tên là Hàng Khoai vì ở sát bên chợ Đông Xuân, hàng ngày nông dân ngoại thành hay tập trung ở đây để bán các thứ nông sản nhiều nhất là các loại khoai: khoai lang, khoai sọ, khoai môn, cùng với gạo, ngô, đỗ, sắn.
Bán nước chè. 1919.
Nhà thờ ở Lạng Sơn. Thành phố trước đây có tên là Thị xã Lạng Sơn và trở thành thành phố vào năm 2002, là đô thi loại III. Giáo phận ở đây phát triển khá mạnh với rất nhiều nhà thờ.
Cổng tam quan chùa Láng. Chùa Láng còn gọi là Chiêu Thiền tự, là một ngôi chùa đường Chùa Láng, trước kia vốn là ngõ Giếng của làng Láng Thượng, quận Đống Đa, Hà Nội. Tên chùa có ý nghĩa rằng: “Vì có điều tốt rõ rệt nên gọi là Chiêu. Đây là nơi sinh ra Thiền sư Đại Thánh nên gọi là Thiền”. Người Pháp gọi là Pagode des Dames. Còn cổng tam quan là một loại cổng có ba lối đi thường thấy ở chùa chiền theo lối kiến trúc truyền thống Việt Nam. Cổng tam quan mang ý niệm “ba cách nhìn” của Phật giáo gồm có “hữu quan”, “không quan” và “trung quan”, thể hiện cái sắc (giả), cái không (Vô thường) và trung dung của cả hai.
Theo Mannup